Cuộc bầu cử của Anh năm 2005

Vào ngày 5 tháng 5 năm 2005, Thủ tướng Tony Blair ( xem Tiểu sử) đã lãnh đạo Đảng Lao động Vương quốc Anh giành chiến thắng trong cuộc bầu cử thứ ba liên tiếp — lần đầu tiên trong lịch sử 105 năm của Labour liên tiếp giành được ba chiến thắng như vậy. Tuy nhiên, việc tiếp tục tranh luận về vai trò của Blair trong cuộc xâm lược Iraq do Hoa Kỳ lãnh đạo năm 2003 đã góp phần khiến số phiếu của Labour giảm mạnh và giảm đa số Labour từ 167 trong Nghị viện trước đó xuống chỉ còn 66 (trong số 646 thành viên của Nghị viện) tại Hạ viện mới.

Lao động giành được 356 ghế (ít hơn 47 ghế so với năm 2001, sau khi chiếm ranh giới mới ở Scotland), Đảng Bảo thủ chiếm 198 ghế (tăng thực 33), Đảng Dân chủ Tự do chiếm 62 (tăng 11), và các đảng khác cộng lại với tổng số 30 ghế (lợi nhuận ròng là 3). Mặc dù Lao động giành được 55% số ghế, nhưng đảng này chỉ giành được 35,2% số phiếu phổ thông, giảm 5,5% so với cuộc bầu cử năm 2001. Đây là mức ủng hộ thấp nhất từng đạt được đối với bất kỳ đảng nào giành chiến thắng hoàn toàn trong cuộc tổng tuyển cử ở Anh. Đảng Bảo thủ giành được 32,3% (tăng 0,6% so với năm 2001) và Đảng Dân chủ Tự do giành được 22,1% (tăng 3,8%). Tổng số cử tri đi bầu là 61,3%, thấp so với tiêu chuẩn lịch sử nhưng cao hơn 1,9% so với năm 2001.

Lợi thế chính của Labour là nó đã chủ trì một nền kinh tế đang phát triển ổn định trong suốt 8 năm kể từ khi nó trở lại nắm quyền. Các chính phủ Lao động trước đây đã từng gặp khó khăn bởi thất bại kinh tế, nhưng dưới sự quản lý của Gordon Brown, thủ tướng của Exchequer từ năm 1997, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát và thế chấp đều giảm xuống mức thấp nhất trong 30 năm trở lên. Trong khi Brown luôn được công chúng đánh giá cao, Blair phải hứng chịu những lời chỉ trích liên tục (mà ông từ chối một cách mạnh mẽ) rằng ông đã đánh lừa công chúng Anh vào thời điểm chiến tranh Iraq năm 2003. Những lời chỉ trích này mở rộng thành một cuộc tranh cãi chung về sự trung thực của Blair.

Đảng Bảo thủ coi đây là một trong những chủ đề chiến dịch trọng tâm của họ, nhưng họ đã thành công hơn trong việc thu hút sự ủng hộ của Blair và Labour hơn là xây dựng chủ đề của riêng họ. Điều này một phần là do công chúng không mặn mà với nhà lãnh đạo của họ, Michael Howard, người bị tàn tật bởi quá khứ từng là bộ trưởng nội các cánh hữu. Về cơ bản hơn, đảng Bảo thủ đã gặp phải những vấn đề lâu dài với hình ảnh “thương hiệu”, điều này không thể giải quyết được trong chiến dịch kéo dài 4 tuần. Quan điểm này đã được đưa ra bởi Lynton Crosby, chiến lược gia chính trị người Úc được Howard thuê để điều hành chiến dịch tranh cử, trong một bài phát biểu trước các nghị sĩ Đảng Bảo thủ sau thất bại: “Bạn không thể vỗ béo một con lợn trong ngày chợ”, ông nói với họ.

Lord Saatchi, chủ tịch chung của Đảng Bảo thủ, thừa nhận sau cuộc bầu cử rằng đảng đã tập trung quá nhiều vào các vấn đề dân túy cụ thể như kiểm soát nhập cư chặt chẽ hơn và không đủ để cung cấp tầm nhìn rộng hơn cho Anh. Vào ngày 6 tháng 5, Howard tuyên bố quyết định từ chức lãnh đạo đảng, nói rằng vào năm 2009, năm có khả năng diễn ra cuộc bầu cử tiếp theo, ông sẽ 67 tuổi và ông cảm thấy rằng điều này là quá già đối với một nhà lãnh đạo đối lập đang tìm cách trở thành thủ tướng.

Nhiều người ủng hộ Lao động bất mãn chuyển sang đảng Dân chủ Tự do, người đã kết thúc cuộc bầu cử với khối nghị sĩ thuộc đảng thứ ba lớn nhất kể từ năm 1923. Tuy nhiên, 62 ghế của họ đã thiếu so với mục tiêu của đảng không chính thức là 70–80 ghế mà họ hy vọng giành được trong một cuộc bầu cử khi cả hai đảng Lao động và Bảo thủ đều không được lòng dân. Tuy nhiên, công chúng coi Charles Kennedy của Đảng Dân chủ Tự do dễ dàng là nhân vật hấp dẫn nhất trong số ba nhà lãnh đạo chính của đảng.