Halliburton

Halliburton , tên đầy đủ là Halliburton Co. , còn được gọi là (1919–20) New Method Oil Well Cending Co. hoặc (1920–60) Halliburton Oil Well Ceeling Co. , công ty dịch vụ, kỹ thuật và xây dựng mỏ dầu của Mỹ hoạt động trên toàn thế giới. Nó là công ty dẫn đầu toàn cầu trong cái gọi là ngành công nghiệp dầu mỏ “thượng nguồn” (khai thác và sản xuất dầu khí). Trụ sở chính của công ty có văn phòng tại Houston, Texas và Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Nguồn gốc và sự phát triển

Người sáng lập công ty Erle P. Halliburton đã học được cách sử dụng xi măng để bảo vệ và bịt kín các lỗ khoan giếng dầu khi làm việc cho Công ty xi măng giếng dầu Perkins ở California vào năm 1916. Ông sớm bị sa thải khỏi công ty đó, được cho là vì thay đổi quy trình mà không được phép, và cuối cùng tìm đường đến Burkburnett, Texas, nơi dầu được phát hiện vào năm 1918. Năm sau, ông thành lập Công ty xi măng giếng khoan dầu phương pháp mới và cung cấp dịch vụ của mình cho các thợ khoan. Năm 1920, New Method trở thành Công ty Xi măng Giếng dầu Halliburton (HOWCO), và nó sớm thành lập trụ sở chính tại Duncan, Oklahoma.

Erle Halliburton là một kỹ thuật viên sáng tạo, người đã phát minh và cấp bằng sáng chế cho nhiều cải tiến đối với quy trình xi măng giếng dầu. Một trong những phát minh sớm nhất và quan trọng nhất của ông là máy trộn phản lực, một loại máy gắn trên xe tải để trộn nước và vôi để tạo ra xi măng dùng trong giếng. Khi ngành công nghiệp xăng dầu của Mỹ phát triển, các bằng sáng chế của Erle Halliburton đã biến HOWCO trở thành một phần không thể thiếu trong đó. Cần thêm vốn để mở rộng, Halliburton thành lập công ty của mình vào năm 1924 và đưa một số doanh nghiệp xăng dầu lớn vào làm chủ sở hữu chung. (HOWCO đã không chào bán cổ phiếu của mình cho công chúng cho đến năm 1948.) Công ty bán hàng đầu tiên ở nước ngoài vào năm 1926, khi bán các đơn vị xi măng cho một công ty Anh để sử dụng ở Miến Điện (nay là Myanmar). Trong những năm 1930, HOWCO đã mở các phòng thí nghiệm nghiên cứu và tăng phạm vi dịch vụ mà nó cung cấp.Công ty đã triển khai một giàn khoan xi măng gắn trên xà lan ở Vịnh Mexico vào năm 1938, do đó đã thành lập trong các dịch vụ ngoài khơi, cuối cùng trở thành một phân khúc chính của ngành dầu khí. Nó thành lập sự hiện diện ở Bờ Tây vào năm 1940 bằng cách mua Perkins Oil Well Cefying, công ty nơi Erle Halliburton đã từng làm việc. HOWCO đã mở văn phòng đầu tiên ở Nam Mỹ, tại Venezuela, trong cùng năm và văn phòng đầu tiên ở châu Âu, tại Ý, vào năm 1951.trong cùng năm và văn phòng châu Âu đầu tiên của nó, tại Ý, vào năm 1951.trong cùng năm và văn phòng châu Âu đầu tiên của nó, tại Ý, vào năm 1951.

Năm 1949, công ty đã có được giấy phép độc quyền để thực hành bẻ gãy thủy lực, một kỹ thuật mới được phát minh để giải phóng các mỏ dầu và khí không thể tiếp cận cho đến nay từ các thành tạo đá ngầm. Fracking, như kỹ thuật sau này được gọi là, được chứng minh là rất có lợi cho HOWCO. Erle P. Halliburton qua đời vào tháng 10 năm 1957, lúc đó công ty của ông có 20.000 nhân viên. Năm 1959, HOWCO mua lại Otis Engineering, một công ty khác hoạt động trong lĩnh vực thiết bị và dịch vụ mỏ dầu. Năm sau HOWCO rút ngắn tên thành Halliburton Co. để phản ánh phạm vi hoạt động được mở rộng. Công ty chuyển trụ sở chính từ Oklahoma đến Dallas vào năm 1961. Một sự mở rộng và đa dạng hóa lớn đến với việc mua lại Brown & Root, Inc., một công ty xây dựng và kỹ thuật có trụ sở tại Texas, vào năm 1962.Kỹ thuật và xây dựng trở thành một phần rất quan trọng của Halliburton.

Cheney, KBR và Deepwater Horizon

Dick Cheney, người từng là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ trong chính quyền của George HW Bush (1989–93), trở thành chủ tịch và giám đốc điều hành của Halliburton Co. vào năm 1995. Ông tiếp tục chương trình mở rộng bằng cách mua lại. Thương vụ đáng chú ý nhất của ông là Dresser Industries, trước đây là một đối thủ cạnh tranh lớn, vào năm 1998. Trong những thập kỷ trước, một đơn vị Dresser đã làm nhiều việc với amiăng, khiến Halliburton phải chịu trách nhiệm nặng nề về các vấn đề sức khỏe liên quan đến amiăng. Năm 2002, công ty đồng ý trả khoảng 5 tỷ đô la tiền mặt và cổ phiếu để giải quyết tất cả các khiếu nại. Công ty con kỹ thuật MW Kellogg của Dresser's đã được kết hợp với Brown & Root để thành lập bộ phận Kellogg Brown & Root (KBR) của Halliburton.

Cheney rời Halliburton vào năm 2000 để tham gia chiến dịch tranh cử tổng thống George W. Bush, và sau đó ông giữ chức phó tổng thống trong chính quyền Bush (2001–09). Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Bush, các lực lượng do Hoa Kỳ lãnh đạo đã tham gia vào các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Halliburton, chủ yếu thông qua công ty con KBR, đã nhận được các hợp đồng tái thiết của chính phủ Hoa Kỳ lớn hơn bất kỳ công ty nào khác để làm việc ở hai nước. Nhiều hợp đồng đã được trao mà không có đấu thầu cạnh tranh. Các nhà phê bình buộc tội thiên vị vào thời điểm đó, và KBR sau đó bị buộc tội quản lý kém. Năm 2006, Halliburton tách KBR thành một công ty riêng biệt.

Halliburton chuyển trụ sở chính từ Dallas đến Houston vào năm 2003. Bốn năm sau, David J. Lesar, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành, chuyển văn phòng của mình đến Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Lesar tuyên bố rằng Đông bán cầu đã trở thành thị trường quan trọng nhất của công ty, nhưng một số nhà phê bình gọi đây là một động thái tránh thuế. Vị thế của công ty là nó có một “văn phòng công ty” ở Dubai và một văn phòng khác ở Houston.

Halliburton nhận được nhiều sự chú ý không mong muốn liên quan đến vụ tràn dầu Deepwater Horizon. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2010, một luồng khí tăng cao xé toạc lõi bê tông Halliburton gần đây đã được lắp đặt trong giàn khoan dầu Deepwater Horizon của BP ngoài khơi bờ biển Louisiana. Khí gas bốc cháy, giết chết 11 công nhân trên giàn khoan, và ống nâng (ống thẳng đứng) bị vỡ, làm tràn vài triệu thùng dầu ra Vịnh Mexico. Vào năm 2013, công ty đã đồng ý trả một khoản phạt 200.000 đô la sau khi nhận tội hình sự rằng nhân viên của họ đã tiêu hủy bằng chứng. Năm sau, một tòa án dân sự phát hiện Halliburton đã cẩu thả và phân bổ trách nhiệm của nó đối với thảm họa ở mức 3%. Công ty đã giải quyết các yêu cầu bồi thường với các nguyên đơn khoảng 1,1 tỷ đô la.

Giàn khoan dầu Deepwater Horizon: cháy Bài báo này đã được sửa đổi và cập nhật gần đây nhất bởi Robert Lewis, Trợ lý biên tập.