NEC Corporation

NEC Corporation , tập đoàn đa quốc gia lớn của Nhật Bản, nhà sản xuất thiết bị viễn thông, phần mềm và dịch vụ liên quan. Trụ sở chính ở Tokyo.

NEC Corporationchíp máy tính.  máy vi tính.  Tay cầm chip máy tính.  Bộ phận xử lý trung tâm (CPU).  lịch sử và xã hội, khoa học và công nghệ, vi mạch, vi xử lý bo mạch chủ bảng mạch máy tính Câu hỏi Máy tính và Công nghệ Câu hỏi Tiền tố Internet WWW viết tắt cho điều gì?

Nippon Electric Company, Ltd. (NEC; tên chính thức là NEC Corporation năm 1983), được thành lập vào năm 1899 với sự tài trợ của Công ty Western Electric của Hoa Kỳ. Đối tác Nhật Bản trong liên doanh mới này là Iwadare Kunihiko, một chuyên gia về hệ thống điện tín, người đã làm việc 10 năm tại Hoa Kỳ dưới thời nhà phát minh người Mỹ Thomas Alva Edison. NEC là công ty liên doanh đầu tiên của Nhật Bản với một công ty nước ngoài, và nó đã mở đường cho Western Electric xuất khẩu thiết bị điện thoại của mình cho chính phủ Nhật Bản. Khi Western Electric dần dần tin tưởng vào tính toàn vẹn của hệ thống quản lý bằng sáng chế của Nhật Bản, nó đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để cuối cùng cho phép NEC sản xuất, thay vì chỉ lắp ráp, thiết bị điện thoại.

Năm 1924, NEC bắt đầu kinh doanh truyền thông vô tuyến của riêng mình, giúp thành lập Đài phát thanh Tokyo, đài phát sóng đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1928, NEC đã sử dụng thiết bị chụp ảnh từ xa mà họ đã phát triển (tiền thân của máy fax) để truyền các bức ảnh về lễ đăng quang của Thiên hoàng Hirohito từ Kyōto đến Tokyo, một chiến công có ảnh hưởng lớn đến người dân Nhật Bản.

Do vị trí chiến lược là nhà cung cấp thiết bị chính cho Bộ Truyền thông Nhật Bản, tiền thân của công ty điện thoại Nhật Bản, NEC đã tham gia vào các nỗ lực hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của đất nước. Trong những năm 1930 NEC thành lập kết nối điện thoại đầu tiên giữa Nhật Bản và Trung Quốc, bằng cách phát triển và lắp đặt 3.000 km (1.900 dặm) của cáp và thiết bị. Sự hỗ trợ của chính phủ cũng là công cụ giúp NEC thành lập phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển đầu tiên vào năm 1939, đặc biệt là khi Nhật Bản cố gắng cai nghiện nước ngoài trong những năm dẫn đến Thế chiến thứ hai.

By 1954 NEC had embarked on computer research and development, including a project to produce a computer using parametrons, a Japanese switching technology (similar to magnetic cores) that was more stable than vacuum tubes and less expensive than early transistors. In 1958 NEC used this technology to build the NEAC-1101, the first Japanese computer system that was not based on an IBM-compatible design. The next year, NEC built its first fully transistorized computer, the NEAC 2201.

Giống như các công ty điện tử khác của Nhật Bản, NEC được Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp Nhật Bản khuyến khích hợp tác với một công ty Mỹ để tiếp cận công nghệ đổi lấy việc tiếp thị hàng hóa của công ty Mỹ tại Nhật Bản. Năm 1962 NEC đã ký thỏa thuận 10 năm với Honeywell Inc. Ngay sau đó NEC bắt đầu sản xuất NEAC 2200 (về bản chất là H200 của Honeywell) để cạnh tranh trực tiếp với IBM.

Một nỗ lực phối hợp nhằm mở rộng toàn cầu đã được bắt đầu vào năm 1964 khi Kobayashi Koji trở thành chủ tịch của NEC, thúc đẩy sự phát triển của công ty, cho đến thời điểm đó chủ yếu dựa vào doanh số bán hàng cho chính phủ Nhật Bản. Trong suốt những năm 1960 và 70, NEC tiếp tục thâm nhập vào thị trường máy tính toàn cầu đang phát triển mạnh. Trong 20 năm từ 1964 đến 1984, tổng doanh thu của NEC tăng từ 270 triệu đô la lên 8 tỷ đô la, 35% trong số đó là kinh doanh ở nước ngoài.

Ở Châu Âu, NEC đã tham gia vào nghiên cứu và phát triển thiết bị và hệ điều hành chung với Honeywell và công ty máy tính do chính phủ Pháp kiểm soát Fédération des Equipes Bull, đặc biệt là sau năm 1970 khi Honeywell tiếp quản vị trí của General Electric Co. tại Bull-General Electric. Năm 1987 Honeywell, Bull và NEC thành lập Honeywell-Bull Inc., với quyền sở hữu lần lượt là 42,5, 42,5 và 15%. Mặc dù Honeywell đã ngừng hoạt động vào đầu những năm 1990, NEC vẫn duy trì hoạt động đầu tư của mình, và khi chính phủ Pháp tư nhân hóa công ty, NEC đã nổi lên như một cổ đông lớn nhất của Bull.

Tại Hoa Kỳ, các công ty bán dẫn Nhật Bản đã vượt qua các đối tác Mỹ của họ trong những năm 1970, gây áp lực lên chính phủ Hoa Kỳ về luật bảo hộ. Đáp lại, NEC mua lại Electronic Arrays, Inc., vào năm 1978, trở thành một trong những công ty Nhật Bản đầu tiên đặt một số hoạt động bán dẫn của mình tại Hoa Kỳ.

Năm 1977, NEC đã công bố chiến dịch “C&C” (máy tính và truyền thông), hai lĩnh vực công nghệ mà Kobayashi đã hình dung là hợp thành một. Là công ty viễn thông ưu việt của Nhật Bản, NEC đã đóng góp vào sự phát triển của điện thoại di động, mạng cáp quang, tổng đài chi nhánh tư nhân và các hệ thống thông tin liên lạc vi ba, kỹ thuật số và vệ tinh. Năm 2000, NEC đã tổ chức lại cấu trúc công ty để tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán hàng và dịch vụ liên quan đến Internet.

Bên cạnh máy tính lớn, NEC còn là nhà phát triển và tiếp thị máy tính cá nhân ban đầu. Năm 1997 NEC hợp nhất các hoạt động máy tính cá nhân ở Bắc Mỹ với Zenith Data Systems và Packard Bell để thành lập Packard Bell – NEC, Inc., nhưng công ty mới không thành công và đóng cửa vào năm 1999.

NEC cũng trở thành nhà phát triển siêu máy tính hàng đầu. Với hàng tỷ đô la tài trợ từ chính phủ Nhật Bản, NEC đã thiết kế một bộ xử lý máy tính tùy chỉnh cho Trình mô phỏng Trái đất của mình. Được đưa vào hoạt động vào năm 2002, cỗ máy này sử dụng hơn 5.000 bộ vi xử lý và vượt trội hơn gấp 5 lần so với đối thủ gần nhất là IBM ASCI White. Earth Simulator được xây dựng để mô phỏng thời tiết - đặc biệt là để đưa ra cảnh báo trước cho chính phủ về các điều kiện bão.

Năm 2002, NEC tách mảng kinh doanh sản xuất chất bán dẫn của mình thành một công ty mới, NEC Electronics, công ty đã hợp nhất với Renesas Techonology vào năm 2010 để thành lập Renesas Electronics. NEC đã thành lập một liên doanh với nhà sản xuất máy tính cá nhân Trung Quốc Lenovo vào năm 2011. Liên doanh Lenovo NEC Holdings, có khoảng 25% thị trường máy tính cá nhân Nhật Bản và gần như được Lenovo mua lại hoàn toàn vào năm 2016.